CHÙA HƯƠNG TÍCH
Nguồn gốc chùa Hương Tích
Chùa Hương Tích có liên quan đến sự tích của công chúa Diệu Thiện, con gái vua Trang Vương của nước Sở. Theo truyền thuyết, công chúa Diệu Thiện không muốn lấy một viên quan võ ác độc mà vua cha ép gả, nên đã quy y Phật giáo và bỏ trốn. Công chúa được Phật Tổ và Thần Hổ che chở, đưa đến núi Hồng Lĩnh để tu hành. Công chúa đã lập am tại động Hương Tích và sau này đắc đạo, hóa thành Phật Quan Âm ngàn mắt ngàn tay.
Theo các tài liệu lịch sử, chùa Hương Tích được xây dựng vào thế kỷ XIII thời nhà Trần. Nhà thơ Nguyễn Thiếp đã ca ngợi chùa qua hai câu thơ: “Hương Tích Trần Triều - Hồng Sơn đệ nhất phong” (Hương Tích ngôi chùa đời Trần - Dựng trên ngọn núi đẹp nhất Ngàn Hống). Năm 1885, chùa bị thiêu rụi trong một trận hỏa hoạn lớn. Năm 1901, Đào Tấn - tổng đốc An - Tĩnh đã quyên góp tiền để trùng tu và xây dựng lại chùa. Năm 1936, vua Bảo Đại đã cho khắc tên chùa vào Anh Đỉnh - một trong chín đỉnh đồng lớn ở Đại Nội Huế.
Kiến trúc chùa Hương Tích
Chùa Hương Tích có kiến trúc độc đáo và ấn tượng, pha trộn giữa phong cách kiến trúc Việt Nam và Trung Quốc. Chùa có ba khu: khu tiền sảnh, khu chánh điện và khu hậu cung. Khu tiền sảnh gồm Tam Quan (Cổng Tam Bảo), Cổng Tam Quan (Cổng Tam Thánh) và Cổng Tam Quan (Cổng Tam Đại). Khu chánh điện gồm Đại Hùng Bửu Điện (Chính điện), Phật Quang Điện (Phật điện) và Cửu Long Điện (Cửu Long thờ). Khu hậu cung gồm Hương Tích Động (Hương Tích thờ), Thanh Sơn Động (Thanh Sơn thờ) và Thanh Sơn Động (Thanh Sơn thờ).
Điểm nổi bật của chùa là Hương Tích Động, một hang đá tự nhiên rộng khoảng 100m2, cao khoảng 10m, có hình dạng như một cái bát ngược. Trên miệng hang có khắc chữ “Nam Thiên Đệ Nhất Động” do vua Trịnh Sâm ban. Trong hang có một tượng Quan Âm Bồ Tát bằng đá, cao 1,2m, ngồi trên đài sen. Bên cạnh tượng Quan Âm là hai tượng Phổ Hiền Bồ Tát và Mãn Đà La Bồ Tát. Trong hang còn có nhiều hình thạch nhũ, thạch tín với các hình dạng kỳ thú như rồng, phụng, chim, cá, hoa, quả…
Chùa Hương Tích đã được nhiều nhà thơ, nhà văn ca ngợi qua các tác phẩm thơ văn. Một số ví dụ như:
- Nguyễn Du đã viết bài “Hương Tích tự” trong chuyến đi công tác đến Hà Tĩnh năm 1819.
- Nguyễn Công Trứ đã viết bài “Hương Tích tự ký” khi đi tuần tra đến Hà Tĩnh năm 1820.
- Hồ Chí Minh đã viết bài “Hương Tích tự” khi đến thăm chùa năm 1958.
- Nguyễn Đình Thi đã viết bài “Hương Tích” trong tập thơ “Đất nước tôi” năm 1961.
- Nguyễn Duy đã viết bài “Hương Tích” trong tập thơ “Một ngày trên đất nước” năm 1975.
Chùa Hương Tích ở Hà Tĩnh là một ngôi chùa cổ kính và linh thiêng, có kiến trúc độc đáo và ấn tượng, có cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp và hùng vĩ. Chùa không chỉ là một điểm du lịch hấp dẫn cho những ai yêu thích khám phá và tôn giáo, mà còn là một di sản văn hóa - lịch sử quý giá của đất nước. Chùa Hương Tích là một địa danh đáng tự hào và đáng để du khách ghé thăm khi đến với xứ Nghệ.