ĐẠO ÔNG TRẦN Ở VÙNG LONG SƠN
Lịch sử hình thành và phát triển của Đạo ông Trần
Theo tư liệu của Bảo tàng Bà Rịa - Vũng Tàu, ông Lê Văn Mưu sinh năm 1856, tại làng Thiên Khánh, tổng Hà Thành, quận Giang Thành, tỉnh Hà Tiên (nay là tỉnh Kiên Giang). Năm 1885, khi 30 tuổi, ông đến An Giang xin làm đệ tử Ngô Lợi (1831-1890), giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, và tham gia phong trào kháng Pháp do ông Lợi lãnh đạo. Sau khi khởi nghĩa thất bại, ông đưa gia quyến về lánh nạn tại núi Nứa (nay là xã Long Sơn), lập ấp Bà Trao. Từ năm 1910, ông bắt đầu xây dựng Nhà Lớn Long Sơn để thờ Trời, Phật, Tiên, Thánh… và truyền bá giáo lý của mình cho người dân trong vùng. Sau khi ông qua đời vào năm 1925, người dân trong vùng đã kính trọng ông như một vị thiện nhân và lập đền thờ Cổ Lũng để tôn kính. Dần dần hình thành tín ngưỡng đạo Ông Trần trong dân gian.
Đến nay, Đạo Ông Trần đã có hơn 100 năm lịch sử và phát triển. Đạo này không chỉ có người dân Long Sơn theo mà còn lan rộng ra các tỉnh miền Tây và miền Đông Nam Bộ. Theo thống kê của Ban Quản lý di tích Nhà Lớn Long Sơn vào năm 2011, có khoảng 20.000 người theo Đạo Ông Trần trên cả nước.
Nét đặc sắc của Đạo ông Trần
Đạo Ông Trần có nhiều nét đặc sắc và khác biệt so với các tôn giáo khác. Đầu tiên là về kiến trúc Nhà Lớn Long Sơn, một công trình bằng gỗ đồ sộ, được làm bằng các loại gỗ quý như lim, sến, trắc, bá gụ… Nhà Lớn có diện tích khoảng 2ha, chia thành ba khu: đền thờ, nhà hội, trường học, chợ, nhà bảo tồn Ghe Sấm và khu lăng mộ ông Trần. Nhà Lớn pha trộn tín ngưỡng dân gian với Nho giáo và Lão giáo. Tại đây còn lưu lại bộ bàn ghế bát tiên (khắc hình 8 vị tiên ông, được cẩn hoa cương và xà cừ) mà Vua Thành Thái từng dùng ở Bạch Dinh. Ngoài ra còn có bộ tủ thờ cổ cẩn xà cừ gồm 33 chiếc, có nguồn gốc từ vùng Hà Đông… Nhà Lớn được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là di tích Lịch sử - Văn hoá năm 1991.
Thứ hai là về giáo lý và pháp quy của Đạo Ông Trần. Đạo này không có kinh sách hay chuông mõ, mà chỉ có những lời dạy truyền khẩu trong dân gian. Đạo này không ép buộc người theo đạo phải ăn chay hay ly gia cắt ái, mà chỉ khuyến khích tu tại gia, tu nhân tích đức. Đạo này không có chùa miếu hay tượng phật, mà chỉ có đền thờ các vị thần linh và tổ tiên. Đạo này không có lễ nghi phức tạp hay mê tín dị đoan, mà chỉ có lễ kỉnh (cúng) ông vào hai ngày chính là ngày vía ông Trần (20 tháng 2 âm lịch) và ngày Trùng Cửu (9 tháng 9 âm lịch). Đạo này không có giới hạn về tôn giáo hay dân tộc, mà chỉ có lòng yêu nước và nhân loại.
Thứ ba là về phong tục và sinh hoạt của người theo Đạo Ông Trần. Người theo đạo thường mặc áo bà ba đen, tóc búi tó củ hành, đầu trần, chân không mang giày dép với ý “đầu đội trời, chân đạp đất”. Người theo đạo thường viết liễn đón xuân vào ngày 21 tháng chạp âm lịch. Liễn là những câu viết trên giấy có nội dung giáo dục, phát huy truyền thống tốt đẹp của tổ tiên: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín. Người theo đạo thường chôn cất trong vòng 24 giờ (không coi ngày giờ), quấn xác vào vải và chiếu cói chôn xuống đất (không dùng quan tài), áo quan được dùng chung cho mọi người (không phân biệt giàu nghèo). Người theo đạo thường không coi ngày khi cưới xin, chỉ chọn hai ngày trong tháng là mồng một và 16 âm lịch.
Đạo ông Trần là một tôn giáo độc đáo và riêng biệt của người dân xã đảo Long Sơn. Đạo này được thành lập bởi ông Lê Văn Mưu, đạo có nhiều nét đặc sắc và khác biệt về kiến trúc, giáo lý, pháp quy và phong tục. Đạo ông Trần không chỉ có ý nghĩa tôn giáo mà còn có ý nghĩa văn hóa và lịch sử. Đạo này là một phần của di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Việt Nam. Đạo này là một đạo làm người, như ông Trần ngày xưa vẫn dạy với nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, trung, hiếu, nhân luân, ái quốc.