ĐỜN CA TÀI TỬ NAM BỘ - BÁU VẬT VÙNG ĐẤT PHƯƠNG NAM
Để có thể tạo nên bản đờn ca tài tử hay, cuốn hút thì cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tiếng đờn và tiếng ca. Tiếng đờn vang lên, tiếng ca vang vọng khắp sông nước như nói thay tiếng long của người dân. Trong đó có niềm vui, có nổi buồn, có sự hạnh phúc và có cả sự chia ly.
Nguồn gốc của đờn ca tài tử.
Đờn ca tài tử bắt nguồn từ nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian. Hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ 19, đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật của đàn và ca, do nhưng người thuộc tầng lớp bình dân, thanh niên, nam nữ vùng nông thôn hát sau những giờ lao động.
Sau biến cố Kinh đô Huế thất thủ năm 1885, ông Nguyễn Quang Đại cùng nhiều quan lại và dân lính trong triều đình lúc bấy giờ chạy về phương Nam để lánh nạn. Với vốn ca nhạc Huế sẵn có, ông đã cải biên một số tác phẩm trở thành đặc trưng âm nhạc Nam Bộ và tạo nên phong trào đờn ca tài tử.
Xuất hiện từ hơn 100 năm trước, loại hình diễn tấu này có ban nhạc bao gồm bốn loại đàn là đàn cò, đàn kìm, đang tranh và đàn bầu. Sau này, cách tân bằng cách thay thế độc huyền cầm bằng đàn guitar phím lõm. Những người tham gia thường là hàng xóm, bạn bè với nhau, họ tập trung lại để chia sẻ thú vui tao nhã này với nhau nên thường không câu nệ trang phục.
Ca nhạc tài tử, đàn ca tài tử, đờn ca tài tử, tài tử miệt vườn là những cụm từ, những cái tên dùng để nói về dân ca Nam Bộ nói chung và ám chỉ đờn ca tài tử nói riêng.
Bằng tiếng đờn, tiếng ca, loại hình sinh hoạt văn hóa này gắn kết cộng đồng với nhau thông qua hình thức thực hành và sáng tác nghệ thuật dựa trên cơ sở nhạc Lễ, nhạc cung đình và âm nhạc dân gian. Nên có thể nói nó vừa có tính bình dân, vừa có tính bác học.
Đặc điểm của đờn ca tài tử.
Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ không ngừng được sáng tạo nhờ tính ngẫu hứng và biến hóa theo xúc cảm. Các bản này được cải biên liên tục dựa trên 72 bài nhạc cổ và 20 bài gốc (bài Tổ) cho 4 điệu, gồm 6 bài Bắc (diễn tả sự vui tươi, phóng khoáng), 7 bài Hạ (dùng trong tế lễ, có tính trang nghiêm), 3 bài Nam (diễn tả sự an nhàn, thanh thoát) và 4 bài Oán (diễn tả cảnh đau buồn, chia ly).
Nhạc cụ được sử dụng để biểu diễn cũng khá đa dang, bao gồm đàn kìm, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn bầu, đàn sáo, đàn cò, tiêu, song loan. Từ khoảng năm 1930 thì có thêm nhạc cụ của phương Tây là violon, guitar phím lõm, guitar Hawaii.
Đờn ca tài tử bao gồm đờn và ca. Đờn theo dòng nhạc tài tử Nam bộ, có 5 nốt nhạc chính là: Hò, xự xang, xê cóng. Nốt nhạc phụ: Phạn, tồn, là, oan. Ca tài tử là ca theo bản đã có sẵn, người viết dựa vào đó mà đặt lời ca sao cho phù hợp với nhạc.
Những người thực hành đờn ca tài tử gồm người dạy đờn (gọi là thầy Đờn) có kỹ thuật đàn giỏi, thông thạo các loại nhạc cụ, thông thạo những bài nhạc cổ, dạy cách chơi đàn. Người đặt lời (thầy Tuồng) có tri thức, kinh và sáng tạo những bản mới. Người dạy ca (thầy Ca) thông thạo những bài ban cổ, có kỹ thuật ca, dạy cách ca, ngân, luyến, ngâm,…. Người đờn (danh cầm) là người chơi nhạc cụ. Người ca là người thể hiện các bài bản bằng tiếng hát.
Những nét mộc mạc của đờn ca tài tử Nam Bộ
Nhờ bắt nguồn từ cuộc sống hằng ngày nên đờn ca tài tử tạo được cảm giác gần gũi dân giã với mọi người. Từ tiếng đờn cho tới giọng ca vô cùng cuốn hút người nghe, tiếng đờn và tiếng ca như tiếng lòng của người dân nơi đây khi nói về cuộc sống của mình. Cuộc sống gắn liền với sông nước cùng với sự hạnh phúc đôi lúc là những nỗi buồn khó nói thành lời đều được thể hiện qua giọng ca.
Thưởng thức đờn ca tài tử
Khi ta đi về miền Tây Nam Bộ, chúng ta có thể dễ dàng nghe được những câu vọng cổ vang lên ở bất kỳ đâu bởi những “nghệ sĩ hát không hay nhưng lại hay hát”. Vào ban đêm, khi tới các bến tàu, miệt vườn ta sẽ bắt gặp nhiều nhóm đang diễn đờn ca tài tử. Đây là nét văn hóa độc đáo, nếp sinh hoạt thường ngày của người dân nơi đây.
Đối với người dân vùng sông nước Cửu Long, thì đờn ca tài tử là môn nghệ thuật không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày, là món ăn tinh thần không thể thiếu.