Thủy điện Hòa Bình: Bản hùng ca thế kỷ 20
Sông Đà liệu có phải là một dòng sông mà con người không thể chinh phục?
Theo Anh hùng Lao động Thái Phụng Nê, từ năm 1940, người Pháp khi đến với Việt Nam của chúng ta đã tiến hành các công cuộc thăm dò bên dưới lòng sông dọc tuyến Hòa Bình và phát hiện bên dưới có chứa các lớp cát, cuội sỏi, mà trình độ công nghệ thời bấy giờ vẫn chưa đủ khả năng xử lý. Điều tương tự tiếp tục tái diễn, người Pháp tiếp tục tiến hành khoan tại các tuyến Chợ Bờ, suối Rút, nhưng bất cập thay tất cả các tuyến khoan đều gặp phải lớp cát, cuội sỏi như trường hợp tuyến Hòa Bình. Cuối cùng người Pháp đã đưa ra một kết luận, đó chính là “Sông Đà bất trị”.
Vào tháng 9 năm 1971, trong lúc tiến hành mũi khoan số 1, trường hợp gặp phải các lớp cát và cuội sỏi tương tự tiếp tục diễn ra đối với các chuyên gia địa chất Việt Nam và Liên Xô. Lý giải một cách khoa học cho hiện tượng này, họ đã phải tiến hành thực hiện việc khoan kiểm tra toàn bộ các tuyến và bắt đầu công cuộc so sánh khối lượng xây dựng ở các tuyến. Việc khảo sát để chọn các tuyến lúc ấy diễn ra vô cùng căng thẳng. Cuối cùng, kết quả có 6 tuyến được đề xuất: tuyến đầu là Suối Rút, là tuyến xuất phát từ dưới chân của cao nguyên Mộc Châu; tiếp theo là tuyến suối Hoa, xuất phát từ Thanh Hóa và đổ về sông Đà; tuyến thứ ba là Chợ Bờ hay còn gọi là Đà Bắc; tuyến thứ tư là Hiền Lương; Hòa Bình trên và Hòa Bình dưới lần lượt là hai tuyến cuối cùng trong 6 tuyến.
Sau khi quá trình khoan khảo sát kết thúc, kết quả thu được cả 6 tuyến đều chứa lớp cát và cuội sỏi ở bên dưới. Tuy nhiên chỉ có mỗi hai tuyến được lập dự án thiết kế chi tiết là tuyến thứ năm và thứ sáu – Hòa Bình trên và Hòa Bình dưới. Tuyến Hòa Bình trên được lựa chọn bởi các chuyên gia đến từ Viện Thiết kế Thủy công Ba Cu - nước Cộng hòa Adecbaizan. Bên cạnh đó, các chuyên gia của Viện Thiết kế Thủy công Matxcơva chọn tuyến Hòa Bình dưới. Tuy nhiên, để tuyến Hòa Bình dưới thật sự được lựa chọn, một cuộc tranh cãi kéo đã diễn ra trước đó vô cùng gay gắt.
Một công trình của thế kỷ
“Tại sao khi đất nước còn nghèo mà lại xây dựng công trình đòi hỏi nguồn tài chính lớn như vậy?” - Một câu hỏi được đặt ra bởi rất nhiều chuyên gia trong và ngoài nước khi họ nghiên cứu về tính khả thi của công trình Thủy điện Hòa Bình. Và cuối cùng, chính thực tế đã mang lại một câu trả lời không thể thích đáng hơn, Thủy điện Hòa Bình đem lại 4 công dụng vô cùng to lớn và vượt trội, nó giúp ta chống lũ, phát điện, tưới tiêu và đảm bảo giao thông đường thủy. Công trình này đã góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chính vì thế, có thể nói, Đảng và Nhà nước ta đã có một quyết định lịch sử khi quyết tâm xây dựng công trình Thủy điện Hòa Bình, dù đất nước vẫn còn đang trong bối cảnh còn nhiều khó khăn.
Thành công của công trình phải kể đến sự góp sức lớn lao và vô cùng tuyệt vời của người anh em Liên Xô, chính nhờ họ đã cung cấp cho ta những trang thiết bị cần thiết, nguồn nhân lực trình độ cao, và nhiều sự hỗ trợ chí tình, ta mới có thể tiếp tục xây dựng công trình Thủy điện Hòa Bình trong bối cảnh đất nước còn nhiều bộn bề và gian khó như vậy. Cùng với cán bộ và công nhân Việt Nam, những chuyên gia Xô Viết đã luôn đồng hành, sẻ chia để xây dựng công trình với tiến độ chưa từng thấy. Cũng chính từ những dự án như vậy, đội ngũ kỹ sư và công nhân Việt Nam mới có cơ hội học hỏi và kế thừa được kỹ thuật cao của các chuyên gia Liên Xô. Có thể nói, Thủy điện Hòa Bình chính là biểu tượng cho tình hữu nghị cao đẹp Việt – Xô.
Ông Godunov Boric Ivanovich, người từng giữ cương vị Phó tổng chuyên viên Xô Viết về kỹ thuật đã ghi trong hồi ký của mình: “Thủy điện Hòa Bình được xây dựng trong điều kiện kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, bên cạnh việc cung cấp tài liệu thiết kế và gửi các chuyên gia sang làm việc, Liên Xô còn cung cấp vật tư, thiết bị xây dựng các cơ sở sản xuất phụ trợ cũng như xây dựng khu nhà ở cho chuyên gia, cung cấp thiết bị công nghệ và máy móc xây dựng kèm theo phụ tùng.” (*)
Tổng chuyên viên Pavel Timofeevich Bogachenko, một trong những người có những đóng góp vô cùng to lớn vào sự thành công của việc xây dựng và có được một Thủy điện Hòa Bình như ngày hôm nay. Năm 1979, ông được cử sang Việt Nam làm Tổng chuyên viên và trực tiếp điều hành xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình.
Bên cạnh đó phải kể đến Bogachenko P.T . Ông là một trong số ít những chuyên gia có kinh nghiệm nhất trong lĩnh vực xây dựng cũng như điều hành các công trình thủy điện lớn. Ông thường xuyên nghiên cứu kỹ từng chi tiết của dự án trong các điều kiện kỹ thuật sản xuất cụ thể, có khả năng quản trị, tạo sự đoàn kết và tổ chức điều hành công việc của tập thể hiệu quả. Ngoài ra ông còn biết cách để họ có thể sử dụng tối ưu bộ máy quản lý và các tổ chức xây lắp của Việt Nam. Giống như một “nhạc trưởng” của công trình, ông luôn kiểm soát tiến độ công việc một cách kịp thời và luôn đưa ra những giải pháp hiệu quả, khắc phục những khó khăn nảy sinh trong quá trình thi công.
Ngày 6/11/1979 cũng chính là ngày mà dự án Nhà máy Thủy điện Hòa Bình chính thức được khởi công. Sau hơn 15 năm thi công, đội ngũ cán bộ, kỹ sư, tư vấn thiết kế và chuyên gia Liên Xô với sự làm việc miệt mài và không ngừng nghỉ, cuối cùng đến ngày 20/12/1994, Nhà máy đã được khánh thành. Ngày 24/5/2016, Nhà máy Thủy điện Hòa Bình đã đạt mốc sản lượng 200 tỷ kWh điện cung cấp cho hệ thống điện quốc gia – mốc sản lượng mà cho đến nay, chưa nhà máy nào ở Việt Nam có thể đạt được.